Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Học sinh trường làng Bình Đình thi viết thư pháp


Những nét bút tuy còn run run, ngượng ngùng nhưng với sở thích mê môn nghệ thuật thư pháp những “anh đồ” của Trường THPT Nguyễn Hữu Quang (xã Cát Hưng, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) đã làm người xem tấm tắc khen ngợi.

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thành lập Đoàn Thành niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/3, Trường THPT Nguyễn Hữu Quang đã tổ chức nhiều trò chơi bổ ích cho các em học sinh như: văn nghệ, thi nấu ăn, cắm hoa…  


Bình Định: HS trường làng thi viết thư pháp nhân Ngày 26/3
Học sinh Trường THPT Nguyễn Hữu Quang (xã Cát Hưng, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) hào hứng cùng tham gia phần thi trổ tài nấu ăn.
Đặc biệt, tại lễ kỷ niệm, nhiều học sinh hào hứng tham gia màn thi nghệ thuật viết thư pháp. Tham gia thi cuộc thi năm nay, có 8 đôi với 16 học sinh của trường. Chủ đề viết thư pháp về tình yêu hương đất nước, cha mẹ, thầy cô, bạn bè…

Bình Định: HS trường làng thi viết thư pháp nhân Ngày 26/3
8 cặp thí sinh thi tài viết thư pháp.
Bước vào cuộc thi, cặp thí sinh Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Thị Cẩm Thế (HS lớp 12 A3) được đánh giá là xuất sắc hơn, khi chưa hết thời gian, hai bạn đã viết và vẽ trang trí xong hai bức thư pháp với câu: “Ơn thầy nghĩa bạn tình sâu; trường xưa lối cũ để lâu càng bền”.

Bình Định: HS trường làng thi viết thư pháp nhân Ngày 26/3
Đôi bạn Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Thị Cẩm Thế.
Trong khi đó, các thí sinh còn lại phải sử dụng hết thời gian 90 phút cho bài thi. Tuy những nét bút của các em còn ngượng ngùng nhưng dần dần những bức thư pháp đã nhanh chóng hoàn thành với sự ngưỡng mộ của thầy cô giáo và các bạn học sinh trong trường.

Bình Định: HS trường làng thi viết thư pháp nhân Ngày 26/3
Sản phẩm của các ông bà đồ học sinh sau 90 phút trổ tài.

Bình Định: HS trường làng thi viết thư pháp nhân Ngày 26/3
Bức thư pháp được thầy cô đánh giá cao của cặp thí sinh Nguyễn Văn Thân và Nguyễn Thị Cẩm Thế.

Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

Thư pháp Việt-điều thần diệu nơi tâm hồn


Thư pháp tiếng Việt cứ le lói, âm ỉ như một ngọn lửa nhỏ, bỗng bùng lên mạnh mẽ từ đầu thiên niên kỷ này. Hầu như chỗ nào ta cũng bắt gặp thư pháp tiếng Việt. Thư pháp trên tranh, trên bìa, trong tập thơ, đông đảo nhất là thư pháp trên lịch và tờ treo trong nhà.


Bùi Hiển chạy khắp Bắc, Trung, Nam để triển lãm thơ Bùi Giáng mà Bùi Hiển thể hiện bằng thư pháp. Tờ thư pháp của Hiển được đón chào bằng những nụ cười hóm hỉnh là câu:

"Dạ thưa xứ Huế bây chừ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương"

Trong Sài Gòn, nhà thơ Trụ Vũ có cả một xưởng thư pháp. Ông viết thư pháp trên giấy, trên lụa, trên đĩa sành sứ. Và ông còn có cả một cửa hàng bán thư pháp.

Ở Huế cũng hình thành một câu lạc bộ thư pháp. Tiểu biểu nhất là thư pháp của nhà thơ Nguyệt Đình. Ông trình bày thư pháp rất thành công trên những tấm gỗ xẻ chéo thân cây còn nguyên vỏ, rất được công chúng tán thưởng. Nhà thơ Minh Dức Triều Tâm Ảnh, vị sư trụ trì chùa Huyền Không, ông ở một am nhỏ trong rừng nhưng rất được nhiều chúng sinh lên xin thư pháp về thờ, về treo trong nhà.

Theo cách định nghĩa: thư pháp là tranh chữ, thì cách trình bày chữ Việt trên giấy, trên đá, trên gỗ, trên đĩa cũng xứng đáng là một bức tranh. Tôi đã gặp trong một ngôi nhà cổ ở thị xã Hội An một đôi câu đối, mà mỗi nét chữ Nho đều được thể hiện bằng một dáng chim. Cả hai câu đối là một quần thể chim rất sinh động, như một bức tranh chim hoành tráng. Có thể gọi là thư pháp vẽ được chăng.

Trò chuyện với nhà thơ Trụ Vũ, tôi nói với ông: "Thư pháp Trung Quốc coi như đã định hình. Đọc sách, tôi biết các nhà thư pháp Trung Quốc rất khổ công trong luyện chữ. Vương Hy Chi luyện bút trong 15 năm; cháu ông Vương Thiền Sư luyện bút trong 40 năm; Trương Chi mỗi lần tập viết xong, rửa bút ở ao, lâu ngày nước ao đen như mực. Nói về hòa thượng Thích Hoài Tố viết thư pháp, sách chép: "Hoài Tố thuở nhỏ nhà nghèo, không tiền mua giấy, phải viết chữ trên lá chuối. Nhờ xem những áng mây vần vũ, nhìn các nét rạn nứt trên tường... chợt lĩnh hội bút ý. Nét bút của ông phóng khoáng, phiêu dạt, mảnh mai thần diệu, thuận tay biến hóa như gió loạn mây cuồng, nhưng không loạn quy củ. Thật là kinh dị". Thế mới thấy thư pháp của ông điêu luyện chừng nào! Trụ Vũ đáp: "Không thần diệu không thể viết thư pháp được". Tôi hỏi: "Chữ Trung Quốc có các nét chính: chấm, phẩy, gạch ngang, xổ dọc, hất lên, quai xước. Mỗi nét đã có chuẩn mực, có hình tượng, bản thân mỗi chữ Nho ấy đã là một bức tranh. Chữ Việt thì sao?". Ông đáp: "Viết thư pháp là thể hiện cái hồn của mình. Có câu: "Nhìn chữ biết người" là vậy. Chữ Việt đâu thiếu đường nét ấy. Chẳng qua họ quá quen với chữ Nho, nên nghi ngại thư pháp chữ Việt. Này nhé, xưa, thời cổ trung đại của Trung Quốc, bấy giờ mới có tranh thủy mạc. Từ đó đến nay, mới có thể kể đến tranh màu nước, tranh sơn dầu, tranh lập thể, tranh trừu tượng. Các loại tranh ấy đều được yêu mến, trân trọng và đặt cho cái tên rất đỗi tự hào: Hội họa hiện đại. Rõ ràng, không kể loại hình mà phải kể tới tâm hồn người họa sĩ. Vậy thì chữ Nho cứ coi như một loại tranh, chữ Việt sao không thể gọi là một loại tranh được. Điều cốt yêu của thư pháp, như tôi nó, là cái thần diệu nơi tâm hồn mình".

Với 41 năm nghiên cứu và viết thư pháp, Trụ Vũ cho biết, trước ông, ông đã thấy có hai nhà thơ viết thư pháp tiếng Việt, đó là nhà thơ Vũ Hoàng Chương và nhà thơ Đông Hồ. Năm 1964, nhà thơ Đông Hồ tới thăm hòa thượng Trí Chủ, trụ trì chùa Già Lam thọ 60 tuổi, ông đã viết tặng hòa thượng một câu đối tiếng Việt:

"Bảo quốc 300 năm giặc nào phá nổi
Hòa thượhg 60 tuổi pháp độ quần sanh"

Đọc từng vế đối, thật chưa chỉnh, nhưng cái hồn của tác giả không chê vào đâu được. Một tấm lòng với nhau mà. Xin nói thêm, Bảo Quốc là chùa Bảo Quốc ở Huế, hòa thượng Trí Chủ tu hành ở đây và từ đây ra đi. Chưa nói đến nội dung câu đối, mà điều đáng nói là chữ viết thật dịu dàng, nhu hòa, chất phác mà điêu luyện. Có thể coi đây là bức thư pháp đầu tiên bằng tiếng Việt, hiện đang còn lưu giữ tại tịnh thất hòa thượng Trí Chủ ở chùa Già Lam, Sài Gòn.

Hai lần Festival ở Huế năm 2000 và 2002 vừa qua, cùng với mấy chục điểm biểu diễn văn hóa nghệ thuật khác, ngay trên bờ sông Hương, trước cửa Quảng Đức của thành nội, bên cạnh Phu Văn Lâu có "Trại thư pháp" của Huế. Khách đến tham quan và xem tranh chữ rất đông, dù điểm ấy không hoành tráng, không kỳ công, diêm dúa, mà giản dị, chất phác, gần gụi. Khách đến và đi như ở nhà mình.

Các nhà thư pháp viết thư pháp treo trên tường nhà. Có người đến nhờ các nhà thư pháp viết cho mình một tờ theo ý mình, tên mình hoặc một câu thơ mà mình thích. Khách xin nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh câu thơ đầy chất thiền của ông:

"Ta cúi xuống nhặt hạt sương trên cỏ
Bỗng thấy áo tiền nhân còn ướt chưa khô"

đến xin nhà thơ Nguyệt Đình một câu thơ "rất sông Hương" và cũng lồng lộng tâm hồn Cao Bá Quát "Sông dài như kiếm dựng trời xanh". Đám trẻ thì cứ quấn lấy Bùi Hiến, anh dễ hòa đồng với bọn trẻ. Khách rất thích thư pháp một chữ của Hiến: "Đức", "Nhân", "Nghĩa"... Song đẹp nhất phải nói tới cách Hiến tủm tỉm nâng vạt áo thiếu nữ Huế và đề thơ lên đó.

Thư pháp chữ Việt lặng lẽ đi, và phát triển qua bao thử thách. Giờ đây nó thật sự được yêu mến. Cuộc hành trình thư pháp tiếng Việt không ồn ào, song đầy mong chờ. Xin các nhà thư pháp một chữ "Tín" bằng thư pháp tiếng Việt mình, để tỏ lòng ngưỡng mộ và kỳ vọng của chúng tôi.

(Theo Heritage)

sưu tầm

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Hồn Việt Qua THƯ PHÁP



Nói đến Thư pháp là nói đến một loại hình nghệ thuật độc đáo, hình tượng mỗi chữ viết ra nói lên được hồn người, diễn tả dụng ý của ngôn từ bằng chính chữ viết của mình, do đó, mỗi ký tự viết ra là một nét bút đặc trưng khác nhau tùy theo vị trí và dụng ý của người viết, cũng như tùy thuộc vào lời văn được viết. Do vậy làm sao mà tạo nên một phông chữ ưng ý và hoàn chỉnh thay cho cách viết thư pháp bằng bút lông được? Vì trên máy vi tính, mỗi phông chữ chỉ gói gọn trong 24 ký tự tiếng Việt mà thôi, thí dụ như chữ này vẫn dùng cho chữ â kia chẳng hạn… Tuy nhiên, với niềm đam mê và sự cố gắng hiệu chỉnh không ngừng, phông chữ tạm gọi là Thư pháp gõ theo mã tiếng Việt đã được hình thành, tuy chưa vừa ý nhưng cũng tạm đáp ứng được phần nào cho các bạn thích chơi chữ và dùng làm thiệp. Chúng tôi xin tạm gọi là chữ thư pháp thôi, vì như trên đã nói, làm sao máy tính diễn tả hồn người được?
  Chúng tôi không phải là những nhà nghiên cứu Tiếng Việt, cũng không phải là cụ đồ nho mà dám nói lên Hồn Việt qua nét chữ, chúng tôi chỉ là những người tập tành làm nghệ thuật mà thôi, đã tập tành thì chưa dám nói đến vị nghệ thuật, chứ đừng nói chi là vị nhân sinh. Nhưng đứng trước trào lưu phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ mới vào kho tàng nghệ thuật dân gian của Việt Nam của chúng ta cũng là việc đáng làm và đáng quan tâm, dù sao thì cũng phải có một cái gì đó nói lên Hồn người Việt của mình trên chiếc máy tính chứ! Do vậy nên tuy biết rằng mình tài hèn sức mọn, chúng tôi vẫn gắng làm, nhờ đó mà các phông chữ thư pháp ra đời.
  Tiếng Việt của chúng ta khác với các ngôn ngữ khác, vì chúng ta có dấu. Về mặt mỹ thuật thì đây cũng là một điểm để các cụ đồ thời nay trổ tài hoa mỹ khi viết dấu, tuy nhiên trong máy tính, chỉ có mỗi một cách viết cho mỗi loại ký tự hoặc dấu, nên việc diễn tả có phần hạn chế, mong người sử dụng hãy thông cảm cho vì máy tính không thể nào bằng bút lông được!
  Khác với những chữ thư pháp có trên thị trường, đó chỉ là những hình ảnh các chữ đã được viết sẵn, các phông chữ thư pháp của chúng tôi là phông chữ True Type thực sự, có kích thước file chỉ vài chục KB mà thôi, bạn có thể Add Font vào thư mục Fonts của Windows bằng cách Install new fonts, phông chữ này sẽ có mặt trong List font của Winword, Corel, Photoshop và sử dụng như những phông chữ bình thường khác. Xin lưu ý với các bạn là trong Word, các chữ thư pháp hiển thị trên trang văn bản sẽ không nhìn thấy phần chân của ký tự đối với các chữ g, y, q chẳng hạn, vì nó là dạng phông chữ nghệ thuật nên dài hơn bình thường và vì Word đã ngầm định khoảng cách trong Paragraph, nhưng khi in ra để chế bản thì hoàn toàn chính xác, xin quý vị và các bạn hãy yên tâm. Ngoài các phông chữ Thư pháp ra, chúng tôi còn dành tặng quý vị các phông chữ độc đáo và mới lạ khác mang tính thẩm mỹ không kém gì chữ thư pháp.
  Nói về Hồn Việt qua Thư pháp, chắc chắn còn rất nhiều điều để bàn, chúng tôi không dám đề cập đến nhiều vì chỉ là hậu sinh mà thôi, mong các vị tiền bối thông cảm cho, nhưng tóm lại, chúng tôi chỉ muốn tạo các phông chữ thư pháp để đem đến một chút gì đó gởi đến quý vị và các bạn cho thỏa niềm say mê mà thôi. Chắc chắn sẽ còn rất nhiều điều để nói, xin quý vị và các bạn hãy nói lên cảm nghĩ của mình bằng cách click vào mục Góp ý kiến nhận xét trên diễn đàn hoặc Click vào đây để gởi thư góp ý cùng chúng tôi. Một lần nữa, xin cám ơn quý vị và các bạn.
Ở Việt Nam thuở xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những « Thầy Ðồ » hay những người « hay chữ » để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối viết như vậy được gọi là Thư Pháp (Calligraphy). Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp).
  Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì.
  Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện: bút sắt, cọ, thước, compa, êke… Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh.
  Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt… Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học.
  Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới đọc được chữ Hán, chữ Nôm, còn hầu hết là không đọc được.
  Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt? Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi vì sao giải thích được: « Sao là đẹp? Sao là không đẹp? » (KTS Nguyễn Thanh Sơn)
  « Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !… biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau nầy » (Trang Tử).
Thư pháp bằng tiếng Việt
Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải “nhiếp tâm” với những gì mình sắp sửa viết ra.
  Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoảng 10 năm nay tại Việt Nam, nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều “Thư pháp gia” tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và các bạn sơ lược về bộ môn này.
  Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn này khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chính:
Chương pháp: tức là nghiên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp.
- Ðầu câu không thụt vô.
- Các hàng đều và dài bằng nhau
- Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng
- Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng
- Không dùng dấu chấm câu.
Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chính:
- Hình chữ nhật đứng (Trung đường)
- Hình chữ nhật ngang (Hoành phi)
- Hình vuông (Ðấu phương)
- Hình mặt quạt (Phiến diện) (xem các hình bên cạnh)
Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hóa rất độc đáo của người Trung Quốc.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm giá trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi:
Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm.
Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt.
Loại nửa chìm nửa nổi
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như:
- Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương
- Ðóng ở thắt lưng thư tác gọi là Yêu chương
- Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây:
- Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình); hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ…) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ…) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện.
- Trường hợp ngoại lệ: vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện.
Các kiểu chữ trong Thư pháp:
Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chính:
- Chữ Chân Phương, tạm gọi là Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường.
- Chữ Cách Điệu, tạm gọi là Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình.
- Chữ Cá Biệt, tạm gọi là Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc.
- Chữ Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v…
- Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược.

 
( sưu tầm )