Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Hội Ngộ ÔNG ĐỒ 2013



Du khách trầm trồ trước “Bức thư pháp viết bài Hịch tướng sĩ dài nhất” (dài gần 40m, rộng gần 1,5m)

Du khách trầm trồ trước “Bức thư pháp viết bài Hịch tướng sĩ dài nhất” (dài gần 40m, rộng gần 1,5m)
 
Dương Minh Hoàng - ông đồ trẻ mới 28 tuổi

Dương Minh Hoàng - "ông đồ trẻ" mới 28 tuổi
 
Là một thư pháp gia trẻ tuổi đã nắm giữ kỷ lục “Bức thư pháp viết bài Hịch tướng sĩ dài nhất”, anh Dương Minh Hoàng chia sẻ: “Tôi luôn tâm niệm mình phải nâng cao tay nghề trong việc viết chữ, tìm hiểu thêm về những tri thức văn hóa, cũng như định hình cho mình về phong cách. Như vậy, công chúng để có thể tiếp nhận một cách thoải mái hơn khi nhận một bức tranh không chỉ của một người trẻ mà cả một nét văn hóa truyền thống đã được ông bà ta lưu giữ”.
 
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ
Dù chân đau khập khiễng, “bà đồ” Mỹ Hạnh - 65 tuổi, đến từ CLB thư pháp Giác Ngộ tại quận Tân Phú, TP.HCM, vẫn háo hức tham gia chương trình này. Được xem là “bà đồ” cao tuổi nhất cuộc hội ngộ, cô Mỹ Hạnh vẫn rất nhiệt tình tặng chữ cho khách tham quan mà không biết mệt: “Tôi bắt đầu học thư pháp cách đây 10 năm và viết luôn cho tới giờ. Hồi đó hay đi coi triển lãm thư pháp thấy “mê” lắm, đi tầm hỏi mới tìm được chỗ dạy. Sau 1 năm luyện tập, tôi đã bán được 3 sản phẩm đầu tiên, vui hết sức! Mà lạ lắm, học cái này không khó nhưng đòi hỏi kiên nhẫn cao, ai siêng năng tập mãi là được à”.
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ

Họa sĩ Lê Vũ là một trong số ít người đã khai phá thành công loại hình nghệ thuật độc đáo: Thư họa danh nhân
 
Còn ông đồ Lê Vũ (64 tuổi), kỷ lục gia Việt Nam - người vẽ thư họa danh nhân thế giới nhiều nhất, chia sẻ về quá trình hoàn thành 200 tác phẩm của mình: “Bình thường ký họa hình ảnh của một người cho ra cái thần của họ đã khó, còn đây là lấy từng chữ trong tên của họ để khắc họa chân dung. Có những bức tôi hoàn thành rất nhanh, vừa nghĩ ra là làm được liền, còn có những bức phải trăn trở cả tuần lễ mới xong”.
 
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ

 
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ

Ông đồ Công Minh với một tác phẩm thư họa chữ "tâm" độc đáo, khán giả có thể nhìn ra Chúa Giê-su hay Tổ Bồ-đề-đạt-ma, hoặc ông già chống gậy… tùy vào tâm linh mỗi người.
 
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ
 
“Bà đồ” Mỹ Hạnh là nữ thư pháp gia cao tuổi nhất cuộc hội ngộ

Kỷ lục gia - ông đồ tu sĩ nhỏ nhất: thầy Thích Nhuận Pháp không chỉ múa bút đẹp mà múa võ cũng rất hay
 
Các ông đồ cho chữ trên nón lá tặng du khách.

Các ông đồ cho chữ trên nón lá tặng du khách.
 
Nhân dịp Hội ngộ Ông đồ lần 2 (Hội ngộ Kỷ lục gia Việt Nam lần 24), Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam Vietkings cũng xác nhận và trao 8 kỷ lục thư pháp gồm:
1. Vải lụa tím viết thư pháp dài nhất về chủ đề “Ngàn năm văn hiến” của CLB thư pháp Huế;
2.Thư pháp trên nón lá vẽ danh lam thắng cảnh ba miền nhiều nhất của CLB thư pháp Mũi Né;
3. Bộ văn phòng tứ bửu được trưng bày nhiều nhất của CLB thư pháp chữ Việt Hà Nội;
4. Lễ khai danh ông đồ nhiều nhất (CLB thư pháp Nam Việt – QuảngNam);
5. Bức trướng lụa thư pháp dài nhất thể hiện bài thơ “Tổ Quốc ở Trường Sa” của nhà thư pháp Cao Văn Long;
6. Bức tranh hoa sen thư pháp dài nhất của họa sĩ Hồ Mai Hương;
7. Bức thư pháp viết bài Hịch tướng sĩ dài nhất của nhà thư pháp trẻ Dương Minh Hoàng.
8. Ông đồ tu sĩ nhỏ nhất – chủ sở hữu thầy Thích Nhuận Pháp

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

Hội ngộ Ông Đồ lần 2


100 ông đồ hội ngộ tại Vũng Tàu
 
Hội ngộ Ông đồ là hoạt động văn hóa nhằm hướng về cội nguồn, tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống, tinh hoa văn hóa Việt trong nghệ thuật thư pháp. Tham dự chương tình mang nhiều ý nghĩa nhân văn này có đại diện Ban lãnh đạo tỉnh, thành phố Bà Rịa - Vũng Tàu, đại diện Hội đồng Tư vấn Tổ chức Kỷ lục Việt Nam, đại diện lãnh đạo của Busadco (đồng tổ chức chương trình), Hiệp hội và công ty Du lịch tỉnh.
 
100 ông đồ hội ngộ tại Vũng Tàu

Các thành viên của Hội đồng tư vấn của Tổ chức Kỷ lục Việt Nam thực hiện nghi thức khai quan điểm nhãn cho Tứ Lân hội tụ
 
Chương trình bắt đầu với nghi lễ Khai danh ông đồ Việt Nam. 
 
Chương trình bắt đầu với nghi lễ Khai danh ông đồ Việt Nam. 

Chương trình bắt đầu với nghi lễ Khai danh ông đồ Việt Nam. 
 
Chương trình bắt đầu với nghi lễ Khai danh ông đồ Việt Nam. 

Ông Dương Trung Quốc (người thứ 2 từ trái qua) Phó Chủ tịch Hội sử học Việt Nam - Thành viên hội đồng tư vấn Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cùng đại diện các đơn vị tổ chức tiến hành nghi lễ Khai ấn. Hoạt động này tượng trưng cho sự bắt đầu công việc trong một năm mới.
 
Cắt băng khánh thành Phòng tranh Thư pháp, quy tụ các tác phẩm nghệ thuật của 100 ông đồ.

Cắt băng khánh thành Phòng tranh Thư pháp, quy tụ các tác phẩm nghệ thuật của 100 ông đồ.

Hội Ngộ Ông Đồ lần 1

Hướng tới đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, chương trình Hội ngộ ông đồ đã thu hút hàng nghìn người Việt Nam yêu nghệ thuật ở các tỉnh thành trên cả nước hội tụ về vùng đất cố đô để cùng tôn vinh những cái hay, cái đẹp của nền thư pháp Việt Nam; cùng giao lưu, biểu diễn thư pháp Việt và giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo”; khẳng định truyền thống hiếu học, giá trị nghệ thuật của thư pháp Việt xưa trong nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
Tham gia Hội ngộ ông đồ, du khách được bước vào “Vườn tranh thư pháp” và thưởng thức 500 bức tranh thư pháp đặc sắc, chứa đựng cái thần, cái hồn, cái tình, cái ý của người viết.
 

Cắt băng khai mạc Vườn tranh thư pháp
Đặc biệt, trong ngày hội ngộ, có 8 tác phẩm thư pháp xuất sắc được xác lập kỷ lục Việt Nam, bao gồm: Cặp câu đối dài nhất Việt Nam; Bản đồ Việt Nam được tạo bằng nhiều ấn chương nhất; Bộ thư pháp mẫu tự ABC do nhiều người viết nhất; Người khắc chữ thư pháp kinh Phật trên đá nhiều nhất; Bức thư pháp “Chiếu dời đô” trên vải gấm do nhiều người tham gia thực hiện nhất; Người viết quyển “Kinh pháp cú” theo lối thư pháp có kích thước lớn nhất; Cuộc hội ngộ triển lãm nhiều tranh thư pháp nhất và Chiếc trống lớn nhất Việt Nam.
Kỷ lục gia Nguyễn Phúc Vĩnh Thọ (Phó Chủ nhiệm CLB Thư pháp Huế) cho biết: “Tôi rất vui và xúc động khi được tham gia chương trình Hội ngộ ông đồ tại cố đô Hoa Lư! Thư pháp không chỉ là chữ viết, về mặt hình thức tác phẩm thư pháp là tâm huyết, là kỳ công khổ luyện của người viết, còn về nội dung thì thư pháp là kết tinh của kho tàng giá trị tinh thần của dân tộc được chắt lọc, cô đọng và chuyển tải qua những con chữ ngắn gọn là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… cùng những vần thơ đặc sắc”.
 

Màn trống Hội ngộ
Hội ngộ ông đồ thực sự là cơ hội để những người yêu nghệ thuật được tận mắt thưởng thức những "vũ điệu" thư pháp của các ông đồ với Hoa tay thảo những nét/Như phượng múa rồng bay….
Dưới đây là một số hình ảnh về chương trình Hội ngộ ông đồ Việt Nam 2010 và những kỷ lục thư pháp Việt Nam được xác lập:
 

Các nhà thư pháp nhận giấy xác nhận kỷ lục và biểu tượng kỷ lục
 

Ban tổ chức và đại diện nhà thư pháp của 3 miền làm lễ khai ấn
 

100 ông đồ tề tựu tại cố đố Hoa Lư đã tạo lập kỷ lục Cuộc hội ngộ triển lãm tranh thư pháp Việt nhiều nhất
 

Vườn tranh thư pháp


Kỷ lục cặp câu đối dài nhất Việt Nam
(Cặp đối gồm 2 câu, mỗi câu có 50 chữ do 50 nhà thư pháp viết trên lụa vàng nghệ,
2 đầu may lụa nâu, dài 54m, rộng 1,2m mỗi câu, trên dưới có trục gỗ tròn đường kính 7cm).


Kỷ lục Bức thư pháp Chiếu Dời Đô trên vải gấm do nhiều người tham gia thực hiện nhất
(Các nhà thư pháp tham gia chương trình Hội ngộ cùng biểu diễn
90 chữ trích dẫn trong tác phẩm Chiếu Dời Đô của vua Lý Thái Tổ).


 Kỷ lục Bộ thư pháp mẫu tự ABC do nhiều người viết nhất
(Có kích thước 60x80cm, dày 100 trang do gần 100 nhà thư pháp phụng bút).
 

Kỷ Lục Người viết quyển Kinh Pháp Cú theo lối thư pháp có kích thước lớn nhất
(Tác phẩm Kinh Pháp Cú được ông đồ Phạm Gia Cẩn viết trên 42 tờ giấy dó, mỗi tờ rộng 67cm, dài 95cm).


Kỷ lục người khắc chữ thư pháp kinh Phật trên đá nhiều nhất
(Tác phẩm do Đại đức Thích Giác Thiện thực hiện từ năm 2005 - 2010, tổng cộng có 4 bộ:
Bát Nhã Tâm Kinh (16 viên đá, 360 chữ); Đại Bi Thần Chú (22 viên đá, 420 chữ);
14 điều Phật dạy (14 viên đá, 150 chữ); Bài kệ Cư trần lạc đạo phú (1 viên đá, 24 chữ)...
 

Mừng đại lễ 1.000 Thăng Long - Hà Nội, ngày 10/9/2010 tới đây, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội sẽ
tổ chức buổi triển lãm 1.000 bức tranh thư pháp của 1.000 ông đồ đến từ khắp các vùng miền của đất nước.

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

NGHỆ THUẬT THƯ PHÁP

Thư  pháp (Calligraphy)  là nghệ  thuật viết  chữ đẹp  của người Trung  Quốc với  các công  cụ  gọi  là "văn  phòng tứ  bảo" (bút, nghiên, giấy, mực). Thư pháp không  chỉ là nghệ thuật, mà còn là một "đạo  sống" (Thư pháp giả,  Đạo giả).
Đại cương về thư pháp
Thư  pháp (Calligraphy)  là nghệ  thuật viết  chữ đẹp  của người Trung  Quốc với  các công  cụ  gọi  là "văn  phòng tứ  bảo" (bút, nghiên, giấy, mực). Thư pháp không  chỉ là nghệ thuật, mà còn là một "đạo  sống" (Thư pháp giả,  Đạo giả). Cổ nhân  cũng từng nói: "Học tập Thư  pháp khả dĩ tu thân, dưỡng  tính, đào dã tâm tình". Nhận thấy chữ Hán có những nét khá độc đáo, cho nên có người muốn dùng trong hội họa. Đó là  thư pháp.  Người đầu tiên đưa ra sử dụng là Vương Hy Chi (321 - 379) đã định nghĩa như sau:  "Mỗi nét ngang là một đám mây  trong một thế trận, mỗi nét móc là một cây cung giương lên, có sức mạnh khác thường, mỗi nét chấm là một tảng đá  rơi xuống từ đỉnh núi  cao, mỗi nét phẩy là  một cái móc bằng  đồng, mỗi nét  sổ dài là  một thân cây  cổ kính, mỗi nét phóng khoáng mảnh  mai là một lực sĩ  chạy thi ở tư thế  sẵn sàng lao lên phía trước".
Thư pháp  chỉ là cách  vẽ. Chỉ  khi  nào đạt được  tư tưởng Thiền trong thư pháp thì mới phả vào đó một tinh thần, gọi là "thư pháp Thiền"; tâm  không ổn định,  thì không có  thư pháp hay  được.  Người Nhật Bản  từ thuở tiếp xúc với văn  hoá Trung Quốc, đã nhận  ra giá trị  ưu việt của bộ môn  nghệ thuật kỳ diệu này,  đã không  gọi  tên là  "thư pháp",  mà gọi  nó là  "thư đạo" (Shodo). Không những thế, nó là  một môn học hẳn hoi, với đầy  đủ cơ sở lý luận, từ đời nhà Hán đã từng gọi là "thư học".  Các đại gia  thư pháp trước khi thành danh  đã luyện tập viết mấy  chục năm trời ròng  rã. Danh từ "lâm trì" là thuật  ngữ ám chỉ sự khổ luyện này, được kể ra vô số  câu chuyện ẩn dụ về tính kiên trì hiếm có nầy.
Sài Ung đời nhà Hán  để lại một thiên lý luận về môn thư pháp, có tên là "bút pháp". Vỹ Đản đời Tấn đã ra công sưu tầm  được tài  liệu quý giá  này, xem là  trân bảo. Khi  đó Chung  Diêu cầu mãi mà không được, cho nên uất ức phát bệnh trầm trọng, đến nỗi Ngụy Thái Tổ phải ban cho ngũ linh đan mới cứu khỏi được. Khi Vỹ Đản qua đời, Chung Diêu âm  mưu lén quật mồ lên,  đánh cắp thiên "bút pháp" và ngày đêm không rời, khổ  luyện rất công phu, thậm chí khi nằm trên  giường cũng  lấy tay  viết lên chăn gối. Trương Chi đời nhà Hán mỗi lần tập  viết xong thì đem rửa  bút ở ao, lâu  ngày nước đen  như mực (lâm trì học thư, trì thủy tận mạc). Từ  đó mới có thuật ngữ "lâm  trì", có nghĩa  là khổ luyện cách  viết chữ.  Đời Tấn, Vương Hy Chi  phải trải qua 15 năm chuyên tâm rèn luyện thư pháp, bắt đầu một chữ "vĩnh" (dũng tâm thập ngũ niên, thỉ công nhất  "vĩnh" tự).
Đời Tùy, nhà sư Thích Trí Vĩnh (tục gọi là Vĩnh Thiền Sư) cháu 7 đời  của Vương Hy Chi,  trụ trì ở  chùa Vĩnh Hân, ở huyện  Ngô Hân; ông lên lầu chùa rồi không xuống, ở đó suốt 40 năm để luyện thư pháp (đăng lâu bất hạ tú thập  niên). Ông dùng bút  cùn (thoái bút) chất cao thành một gò, gọi là "thoái bút trủng" (trủng là gò mả). Khi thành danh, người người đến  xin chữ, khiến cho ngạch cửa  nhà ông bị dẫm hư, đến nỗi phải lấy sắt  lá bao  lại,  gọi là "thiết  môn hạn". Vua Đường Thái  Tông (Lý Thế Dân)  lúc rỗi, tay không  viết chữ trong không khí (Trừu không luyện tự).  Nửa đêm tốc dậy, đốt đuốc luyện Lan Ðình  ký,  tức là  mặc tích của  Vương Hy Chi  (dạ bán khởi bá chúc học Lan  đình ký).  Nhà sư Thích Hoài  Tố đời Đường, thuở nhỏ nhà nghèo không tiền mua giấy,  chỉ còn biết khổ luyện trên những tàu lá  chuối mà thành công,  được người đời ca  tụng là bậc "thảo thánh" (bậc Thánh về lối chữ thảo), mực đẩm lâm ly, bút pháp tiêu sái, dường như cuồng phong, nhưng lại không hề rối loạn. Nổi tiếng về lối  chương thảo thì có "Thảo thành nhị vương" tức là hai cha con Vương Hy Chi và Vương Hiến Chi. Nổi tiếng về Cuồng thảo  phải kể  Trương Húc và Hoài  Tố, mà thế nhân  thường gọi là "điên Trương, túy Tố" (Trương Húc điên, Hoài Tố say)... 
Thư pháp Thiền ở Nhật có kể  giai thoại như sau:  Khi một người bước chân lên  đền Obaku ở Tokyo,  sẽ nhìn thấy trên  cổng đền bằng gỗ chạm mấy chữ  "Đệ nhất đế". Chữ chạm to lớn khác thường và những ai thích chữ đẹp đều luôn luôn chiêm ngưỡng như là một kiệt tác. Những chữ này do thiền sư Kosen vẽ lên 200 năm về trước. Kosen vẽ trên giấy và người thợ chạm theo đó mà chạm lớn vào gỗ. Trong lúc Kosen phác họa trên giấy, chú đệ  tử nhỏ can đảm của Kosen đã mài mực cho Kosen đến  mấy lần để "viết cho đẹp mới  thôi". Chú nói với Kosen như thế. Kosen viết lần thứ  hai và quay lại hỏi đệ tử. Cậu bé lắc đầu: "Bức này lại còn tệ hơn bức trước kia nữa!". Kosen vẫn kiên nhẫn viết lần này qua lần khác lên đến 41 tấm và lần nào hỏi ý kiến cho đệ tử  mình, thì cậu ta vẫn chê chỗ này, chê chỗ kia. Sau đó chú đệ tử bước ra  ngoài. Khi đó Kosen thầm nghĩ: "Bây giờ  là lúc  ta tránh được con mắt  sắc  bén của cậu  bé". Kosen viết nhanh, với cái  tâm không lo lắng "Đệ nhất đế". Chú bé bước vào, reo to lên "một kiệt tác". Những câu chuyện về thư pháp như đã kể trên đây thì nhiều vô số.  Điều này cho thấy những công trình "trị thư" của người xưa chuyên  cần, trì chí đến mức độ nào!  Người Trung Hoa viết theo những thể dáng và bố cục khác nhau: chân thư, hành thư, thảo thư, triện thủ (đại triện và tiểu triện), Họa thư. Cũng có thể dựa theo kiểu viết của từng tác giả nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn, được gọi là các “thế” như Nhan thế (thế chữ của Nhan Chân Khanh), Liễu thế (thế chữ của Liễu Công Quyền), Âu thế (thế chữ của Âu Dương Tuần)... Trong cách viết thư pháp, tùy theo bút lực, tâm lực, trí lực, cũng như về nguồn cảm hứng thể hiện trong từng thời điểm khác nhau, người viết có thể dùng những động tác khác nhau: ức (nhấn xuống), dương (nâng cao lên), tốn (dè dặt, thận trọng trong từng đường nét), Tỏa (hạ dần xuống), trì (khoan thai, chậm rãi), tốc (viết nhanh, thanh thoát), hoàn (vuốt lại), khẩn (viết gấp tùy hứng), khinh (nhẹ nhàng), trọng (nặng tay, nét đậm).
Thiên tài thư pháp
Chữ Hán theo lối tượng hình, ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại, cho nên thư pháp cũng được phát triển ngay từ đầu. Những di tích khảo cổ học khai quật ở Ðôn Hoàng đã cho thấy những loại chữ đầu tiên theo kiểu tượng hình đó. Vốn là một nghệ thuật viết chữ đẹp, sự phát triển của loại chữ Hán quan hệ mật thiết với sự diễn tiến không ngừng của những thế chữ khác nhau, cũng như những thay đổi của các dụng cụ về viết (bút, nghiên, mực, giấy...).  Về thế chữ, chữ Hán khởi đầu bằng loại giáp cốt (viết trên mu rùa), rồi sau đó, xuất hiện những loại chữ kiểu đại triện, tiểu triện, lệ thư; sau dẫn lại diễn biến thành loại khải thư như chữ thông dụng ngày nay.  Nghệ thuật thư pháp Trung Quốc đã phát sinh và tiến triển từng bước theo những thay đổi trong quá trình đó, trở thành một tài sản nghệ thuật quý báu trong kho tàng văn hoá cổ truyền Trung Quốc. Những nhà nghiên cứu về thư pháp ngày càng nhiều, nên có thêm nhiều khám phá mới lạ trong từng thời kỳ.
A- Giáp cốt văn là loại viết chữ cổ nhất của người Trung Hoa.
Theo nghiên cứu, người xưa đã từng dùng dao (hay những dụng cụ sắc bén khác) để khắc vạch lên mai rùa, xương thú mà thành. Ngoài ra cũng dùng trong thuật bói toán.  Loại chữ giáp cốt còn được lưu truyền trong sách sử ngày nay, đa phần xuất hiện vào đời nhà Thương; một số nhỏ thì thuộc Tây Chu (theo Lâm Ngữ Ðường). Giáp cốt văn được xem là thư pháp đầu tiên của Trung Quốc.Vào đời Tây Chu, loại chữ “đại triện” xuất hiện; một số nhà nghiên cứu cho rằng loại chữ này do vị quan Thái sử đời vua Chu Tuyên Vương là Trứu (Hoàng Trứu) nghiên cứu  để sáng tạo ra, biến đổi của giáp cốt văn. Loại chữ này còn được gọi là “Trứu văn”. Ða số những vương thất quý tộc vào đời nhà Thương và nhà Chu  thường sai người chế tác ra rất nhiều lễ vật dùng trong cúng bái, như chuông vàng bằng kim loại, mà trên đó bao giờ cũng khắc chữ; do đó, người đời gọi là “kim văn”. Trên nguyên tắc bố cục và hình thành thì loại “kim văn” của đời nhà Thương có nhiều điểm giống như loại giáp cốt văn ngày trước; cho đến đầu đời nhà Chu, nhờ công trình của Quách Thế Giai, thể “kim văn” đã được chỉnh đốn lại, với khí thế mạnh mẽ; nét chữ mới này tương đối phóng khoáng hơn.
B-  Loại chữ triện: 
Cho đến những năm cuối thời Chiến Quốc, (206 trước CN) thì lại có thêm những thay đổi thêm, tỏ rõ bước chuyển biến, để sau này trở thành loại chữ “triện” (đại triện và tiểu triện). Tiểu triện là lối chữ được hai vị danh nho đời nhà Tần là Lý Tư và Triệu Cao sáng tạo ra, đã được giản lược khá nhiều so với loại đại triện, cho nên khi viết được tiện lợi hơn và nhanh chóng hơn nhiều. Bản thân vị Thừa tướng Lý Tư cũng là một nhà đại thư pháp đời Tần. Theo những di tích còn lại, thì thể viết tiểu triện của ông rất mềm mại, hoạt bát, cho nên được các danh nho thời đó mệnh danh là loại “ngọc cân triện”. Cũng trong giai đoạn này, loại bút lông đã được phổ biến nhiều; vật liệu để viết này là những vải lụa và những thẻ tre, những bản gỗ mềm mại, cho nên những thể chữ viết đã có phong cách khác với loại chữ khắc trên giáp cốt ngày xưa. Thư pháp được chỉnh đốn thêm nhiều.
C-  Loại chữ Lệ:
Càng ngày chữ Hán lại được canh cải thêm. Ðể cho việc viết sách được tiện lợi hơn, loại “chữ lệ” được ra đời sau đó. Loại chữ này đời Tần thì gọi là “Tần lệ”. Sau khi triều đại Tây Hán được kiến lập, chỉnh đốn mọi sinh hoạt văn hoá, quan thừa tướng Tiêu Hà ra quy định: Thư pháp là một trong những nội dung thi cử từ trung ương đến địa phương; những người đạt được những thành tích tốt thì có thể giao phó đảm nhiệm công việc văn thư trong các cơ quan chính quyền.  Tuy trong giai đoạn này vẫn còn dùng đến loại chữ đại triện và tiểu triện, nhưng loại chữ “lệ” được xem là quan trọng hơn và phổ biến hơn.  Trong nguyên tắc này, loại chữ “lệ thư” đã trở thành thói thời thượng trong cơ quan chính quyền khắp nơi trong xã hội. Cho đến đời vua Thuần Ðế  nhà Ðông Hán, cách viết chữ theo hình giống như chữ “bát”, cho nên gọi đó là “bát phân thể”. Loại chữ lệ  vào đời nhà Hán này nếu đem so sánh với cách viết của đời nhà Tần thì có những thay đổi khá lớn về cách thể hiện, bố cục, cũng như về ý nghĩa của từng chữ, trong thể tượng hình và hài thanh.  Chữ lệ đời nhà Hán (206 trước CN-24)  còn truyền lại cho đến nay đa phần đều được ghi khắc trên những bi ký vào hai thời Hoàn Ðế và Linh Ðế là giai đoạn hưng thịnh nhất của triều đại này. Nghiên cứu những văn bản nẩy (theo bản dập in), có những thể viết rất tinh tế, sắc bén, đạt được cái “thần vận  siêu dật” (theo Lương Khải Siêu), nét chữ chắc khoẻ, đều đặn, gân guốc, nổi tiếng về những tư thế kỳ lạ, phóng túng; biểu hiện được phong cách đa dạng của loại chữ lệ được biến cách đời Hán. Trong số những nhà thư pháp nổi tiếng trong thời đại này thì Thái Ung (cuối đời  Ðông Hán) được ca tụng nhất về cách tu dưỡng cao siêu và  đầy tính chất sáng tạo cho loại chữ Lệ. Vào thời vua Linh Ðế, ông đã viết bản “lục kinh” trên bia đá: đó là tấm “thạch kinh” Hỷ Bình nổi tiếng trong lịch sử.  Khi tấm bia này hoàn thành và được dựng lên, người đếm xem đông đúc vô tả, mỗi ngày có hàng ngàn cỗ xe từ bốn phương đổ về đế kinh để thưởng ngoạn.
D-  Loại chữ Chân:   
Thời gian sau đó, chữ lệ lại biến cách dần; cho đến đời Tam Quốc, thì Hán lệ lại được phát triển lên thêm một bực nữa; nét chữ cũng như cách  kết cấu chữ lệ nghiêm chỉnh, đẹp đẽ thêm nhiều, hình thành chữ “chân” cũng được gọi là “chính khải”. Trong số những nhà thư pháp trong giai đoạn này, thì loại chữ “chân” của Chung Do vào cuối đời nhà Hán được ca tụng là “cổ nhã tuyệt diệu” khó mấy ai sánh kịp. Sau này, Lý Thái Bạch khen lối viết chữ “chân” của Chung Do là “Hạc múa trên trời; chim hồng giỡn sóng”. Từ đó được nhiều người sao lục để truyền bá khắp nơi. Thư pháp thời này cũng nở rộ. Trong việc truyền bá, “lệ thư” được ra đời và tu chỉnh nhanh là do muốn sao chép cho nhanh chóng và tiện lợi, kể cả việc sử dụng trong trường thi. Nguyên tắc chính là: “lệ thư dùng để viết nhanh chữ tiểu triện”.
Chương thảo:  Sau khi lệ thư được ra đời và hoàn chỉnh, thì trong học giới lại có thêm một loại chữ viết nhanh khác, gọi là “chương thảo”, nhưng chỉ được dùng trong dân gian mà thôi. Với những tiến bộ về cách viết chữ như vậy, nhiều tác phẩm nổi tiếng kiệt chúng cũng xuất hiện. Chẳng hạn như  vào thời Nguyên Ðế nhà Tây Hán, danh nho Sử Du đã viết “cấp tựu chương” bằng loại chữ mới, được xem là tác phẩm “chương thảo sớm nhất” trong lịch sử văn học Trung Quốc. Như thế, loại chương thảo này vừa bảo tồn được những tinh túy của lệ thư trước kia, mà lại thêm những đường nét mới: nét chữ như sóng, không có sự nối liền giữa các chữ, vừa không  hoàn toàn căn cứ vào những quy củ viết chữ của lệ thư. Nhờ thế, đường nét vô cùng phóng khoáng, nhiều bản văn thể hiện rất đặc sắc. 
Loại chữ Kim thảo và Hành thư:  Sự biến hoá của chữ Hán càng ngày càng phong phú thêm. Cũng trong đời nhà Hán, loại chữ “kim thảo” và chữ “hành thư” lần lượt ra đời, nhưng chỉ được truyền bá trong một số danh gia. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: nhân vật đầu tiên đã biết  sáng tạo ra chữ “kim thảo” là Trương Chi (?). Nhưng giả thuyết này  về sau vẫn bị phản bác. Theo cách viết mới, loại chữ “kim thảo” khác với “chương thảo” là nét chữ không có sóng, giữa các chữ được kết  liền lại với nhau. “hành thư” là loại chữ viết nằm giữa loại “khải thư” và loại chữ “kim thảo”; tương truyền là do danh nho Lưu Ðức Thăng ra công sáng tạo nên. Những bản văn của ông lưu truyền lại cho thấy: chữ viết của ông bay bướm, mềm mại, với những nét độc đáo, ít ai theo kịp được.
Như thế, cho đến đời nhà Hán thì cả ba thể viết “khải”, “hành” và “thảo” đã được phổ cập trong dân gian rất hoàn chỉnh, không còn những thay đổi khác nữa. Qua những chuyển biến của chữ Hán, có thể hiểu theo một hệ thống rằng: “lệ thư” là kế tục của “triện thư” và sau đó đã mở ra “thảo thư” và “khải thư”. Cũng nên kể thêm đến việc sáng chế ra giấy trong giai đoạn này để thay thế cho những bảng gỗ, cho nên việc truyền bá văn học dễ dàng, nhanh chóng  và sâu rộng.  Vào thời Ngụy Tấn, những cuộc tranh chấp triều chính không mấy khi xuất hiện, văn hoá cũng  phát triển. Trong thời này, nghệ thuật thư pháp Trung Quốc đã tiếp tục phát triển thêm nhiều, khởi đầu dùng thể “lệ thư” của nhà Hán làm căn bản; sau lại được chuyển qua  thể “chân”, “hành”.
Nghệ thuật thư pháp đã đạt được mức độ cao nhất, với sự xuất hiện của vị “thư thánh” là Vương Hy Chi. Tài năng của ông là sự tập hợp tất cả tinh hoa của thư pháp ngày trước, lại thay đổi phong cách chất phác thời Hán và thời Ngụy, tạo ra thể thư pháp mới. Như đã trình bày, “Lan Ðình tự” được người đời tôn sùng, là tác phẩm tiêu biểu của ông.
Hai trường phái:  
Cho đến thời Nam Bắc Triều, do nhiều học phái khác nhau xuất hiện, cho nên thư pháp lúc này cũng được phân chia thành 2 trường phái khác nhau: trường phái phương Nam và trường phái phương Bắc… Phong thổ và sinh hoạt từng vùng đã ảnh hưởng đến thư pháp hai vùng.  Mỗi miền có đặc tính khác nhau: miền Nam thì nổi bật về những nét hoa mỹ; miền Bắc thì lại trội hơn về lối nghiêm chỉnh. Trong những tư liệu văn học về giai đoạn này, người ta thường kể đế những loại bia đá vốn được khai sinh từ thời Bắc Ngụy, vững chãi vào thời Nam Bắc Triều, đều mang phong cách phong phú, đa dạng. Những nhà phê bình đều khẳng định giá trị “Lệ khảo biến hoá, đa dạng, đa thể” của thư pháp thời này, chuẩn bị cho một giai đoạn khai triển lớn mạnh sau này. Vào đời nhà Tùy, Trung Quốc được thống nhất, do đó, thư pháp  tiến đến thời kỳ “hợp lưu”, để từ đó, mở đường cho sự phát triển mới của thư pháp đời Ðường.
Vào đời Ðường (618-907):  Chưa có giai đoạn trước đó, mà thư pháp lại được giới văn học thưởng thức và sáng tạo phong phú cho bằng lúc này. Tất cả các thể “triện”, “lệ”, “chân”, “thảo”, “hành” đều có những trường phái thư pháp riêng biệt, hoạt động trong những  lĩnh vực khác nhau. Người ta thường nhắc đến tên tuổi của Lý Dương Băng sành về lối chữ “triện”, Trương Húc, Hoài Tố hai nhân vật xuất chúng về lối “cuồng thảo”. Chẳng những thư pháp được mến chuộng và được sưu tầm của hoàng thân, quốc thích, quan lại trong triều, mà ngoài dân gian cũng được dấy lên một tư trào tìm kiếm không kém. Vào thời Sơ Ðường, phong trào tôn sùng thư thánh Vương Hy Chi rất mạnh, thiên hạ đua nhau sao chép lại các bút tích hiếm hoi còn lưu lại của ông; rồi đến lượt các tác phẩm của Âu Dương Tuần, Ngu Thế Nam, Chử Toại Lương, Tiết Tắc... của giai đoạn này cũng được mọi người ái mộ. Tuy những phong cách của thư pháp gia Sơ Ðường vẫn chưa thoát ra khỏi thư pháp đời Tần, tuy nhiên, trong nét bút và thể chữ của họ đã có những biến dạng về hình thức, khuôn mẫu, khác với thể dẹt của lối “chữ lệ” vào đời Hán.  Một nhân vật khác chiếu sáng lên thời đó là Nhan Chân Khanh. Theo những nhà văn học thời đó, thư pháp họ Nhan được đánh giá là: “Ông đã đưa phương pháp cổ vào trong ý tưởng mới, đã tìm cách sáng tạo ra phương pháp mới bên ngoài ý cũ, đã sản sinh một phong cách mới: ngay ngắn mà không cẩu thả, trang trọng nhưng không bí hiểm, kỳ vĩ, đẹp đẽ mà pháp độ lại thung dung, phóng khoáng”.
Ðến đời Trung Ðường, lại có thêm một số biến chuyển mới. Tiêu biểu là thiên tài Liễu Công Nguyên, lập ra “Âu thế”, cùng với những bạn đồng liêu của mình  sáng tạo kiểu chữ mới: nét thanh tao hơn, trái với lối viết béo đậm ngày trước, thế chữ nghiêm mật, gân guốc, mạnh mẽ. Câu nói về hai thiên tài này đứng bên cạnh nhau  là “Nhan cân, Liễu cốt”, xứng đáng là những mẫu mực cần thiết cho những ai muốn luyện  thư pháp sau này. Cho đến thời Vãn Ðường thì có Dương Ngưng Thức, cũng là một bậc kỳ tài trong ngành thư pháp Trung Quốc, có nét chữ vô cùng phóng khoáng, phiêu diêu. Phong cách này được xem là bước chuyển mình của thư pháp đời Ðường chuyển sang đời Tống. Chỉ tiếc là thời kỳ này gặp nhiều tao loạn, chính bản thân Dương Ngưng Thức cũng khó tránh tai ương, cho nên khó tìm được nhiều bút tích của ông. Ða phần là chữ được ghi trên bia đá.
Vào đời Tống (960-1127): Ðược dấy lên cao vào đời nhà Ðường, cho nên đến đời Tống, thư pháp lại nở rộ, Nhiều  nhà thư pháp phương Nam lẫn phương Bắc dồn dập xuất hiện. Bốn nhà thư pháp lớn trong tiêu ngữ “Tô, Hoàng, Mễ, Thái” dồn vang trong dân gian chính là Tô Thức (Ðông Pha), Hoàng Ðình Kiên, Mễ Phất (Mễ Phí hay Mễ Nam Cung) và Thái Tương.  Họ cũng là những thi sĩ có tiếng.
Thuật viết chữ đẹp vào đời nhà Tống đã trở thành một công việc khắc chạm chữ đẹp trên đá và trên gỗ trong nghệ thuật trang trí. Về sau, lấy các chữ cà lên trên giấy và biên soạn các phần này thành tập bản sao lưu truyền trong các văn khố. Công việc này trở thành một phương pháp thịnh hành trong việc nghiên cứu, học hỏi các kiểu chữ đẹp khác. Thư pháp của Tô Ðông Pha (Tô Thức) thường đưa những ý mới vào trong pháp độ chữ viết của mình “có xương, có thịt”, giấu kín sự khéo léo trong những nét thô sơ. Hoàng Ðình Kiên thì thường dùng những thế chữ bí hiểm, khó đọc, nhưng lại có sức hoành dật, toàn bài đều biến hoá vô cùng. 
Vào đời Nguyên (1271-1368): thư pháp  Triệu Mạnh Phủ có dạng chữ rất đẹp trong toàn diện, bao gồm các loại chữ “lệ”, “chân”, “hành”, “thảo”.  
Vào đời Minh (1368-1644): các văn nhân thường sở trường về lai loại “hành” và “thảo”, mà tiêu biểu là Chúc Doãn Minh, Văn Trưng Minh, Ðổng Kỳ Xương, Thần Áng, Giang Tân, Văn Thành Minh, Vương Long, Chúc Ngôn Minh, Hưng Ðồng, Trương Thụy Ðồ, Trung Kỳ Xương, Tống Khắc, Thần Ðộ... Họ thường trở lại phong cách thư pháp đời Tấn và đời Ðường. Ảnh hưởng của họ truyền về những thế hệ sau này rất mạnh mẽ. 
Vào đời Thanh: thư pháp ban đầu vẫn nối tiếp phong cách đời Tống và đời Nguyên, thịnh hành về “thiếp học”. Vào đời Khang Hy, Càn Long, thư pháp của Triệu Manh Phủ, Ðổng Kỳ Xương được kế thừa sâu sắc nhất.  Về sau, kim thạch văn khai quật được nhiều, người đều mến mộ, nẩy sinh ra lối “bi học” để thay thế cho “thiếp học”. Một thời, hai thể “bi” và “thiếp” cũng cạnh tranh nhau.
Thư pháp vào đời nhà Thanh có thể phân chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ đầu kể từ đầu nhà Thanh cho đến triều vua Gia Khánh (1796-1820) và Ðạo Quang (1821-1850). Trong thời kỳ này, việc nghiên cứu các bản sao vẫn tiếp tục không sút giảm; những người viết chữ đẹp được ưa thích phải kể đến: Hoàng Từ Thành, Phù Sơn, Trương Triệu, Vương Văn Trị, Lưu Dung.  Còn thời kỳ sau bắt đầu với các triều vua Hàm Phong (1851-1861) và vua Ðồng Trị (1862-1874).
Cùng với sự quan tâm về việc khảo cổ nhiều nét chữ được khắc chạm trên đồ đồng và bia mộ đã được khám phá, người ta còn thu lượm được những nét chữ “từ văn” và “bắc văn”, và do đó, đã nảy sinh ra một trường phái thư pháp độc đáo nữa của đời Thanh, bước sang thời Dân Quốc. Những nhân vật hàng đầu của trường phái này phải kể đến: Ðặng Thạch Như, Hà Thiếu Tề, Trương Ngọc Lưu. Giới thư  pháp Trung Quốc  từ đời Tống  đến đời Thanh  đã xảy ra một cuộc tranh chấp; nguyên nhân là do sự đối chọi của các nhà thư pháp phía Hoa Bắc và phía Hoa Nam. Lịch sử văn học Trung Quốc gọi là "Bắc tính" và "Nam tính". Một bên thiên về cách  viết thiếp, còn một bên thì hướng về cách viết  trên bia đá. Có thể đọc những khác biệt này trên những bài khảo luận của Triệu Mạnh Kiên đời Tống hay của Nguyễn Nguyên đời Thanh thì mới rõ hai chủ trương trái  ngược đều có nguyên nhân của mỗi thể loại. Theo hai nhà bình luận này thì: Hai cách "khắc trên bia" và "viết trên thiếp", bên  nào cũng có hệ  thống phát triển riêng  biệt, do bối cảnh từng vùng mà ra.
Bắc phái: Khắc bia là đặc  tài của những nhà  Thư pháp phía Hoa Bắc. Lối này vốn phát triển qua các triều đại: Triệu, Yên, Ngụy,  Tề, Châu, Tùy. Những thiên tài trong cách viết khắc trên bia đá phải kể đến:  Chung Do, Vệ Quán, Sách Tịnh,  Lư Trạm, Thôi Duyệt.  Hai nhà  Thư pháp Âu  Dương Tuân và  Chử Toại Lương  cũng sành về  cách viết khắc trên bia. 
Nam phái: Nam phái sành về cách viết thiếp.  Loại này bắt đầu  từ đời  Đông Tấn, được tiếp nối qua Tống, Tề, Lương, Trần. Tiêu biểu là Vương Hy Chi, Vương Hiến  Chi, Trí Vĩnh, Ngu Thế Nam. Cho đến nay vẫn có những ý kiến trái ngược hẳn nhau về sự khác biệt và  tranh chấp của hai miền Bắc Nam nầy.
Trong thực tiễn, có người khởi đầu từ cách viết khắc trên bia đá, có người thì  khởi đầu bằng cách viết trên thiếp, nhưng sau thì thay đổi, với phong cách viết chữ khác nhau. Có người thì hợp chung cả hai lối viết thành một. Như thiên tài Vu Hữu Nhậm, thế kỷ XX, đã nhào nặn ra bút pháp chữ lệ, chữ khải (về loại hành), đã sử dụng chung cả  cách viết trên  bia và trên thiếp, trở thành  phong cách độc đáo của ông, mà cả hai phái đều ngợi ca, tán tụng là thuộc về môn phái của mình. Chính cách thử nghiệm này đã có nhiều nhà thư pháp thực hiện một cách hoàn chỉnh.
Trong quá trình biến chuyển, chữ Hán cũng đã trải qua nhiều biến đổi về kiểu chữ, đại cương có nhiều thể loại. Hán tự có từ bao giờ? Cho đến nay, dù dùng cả khoa  khảo cổ học, vẫn còn là nghi  vấn! Những tư liệu có được về  những di tích, di chỉ khảo cổ học cũng chỉ là những truyền  thuyết và những cổ tịch. Người ta cho rằng: Những giai đoạn ban sơ của văn tự Trung Quốc là "thắt nút dây để ghi nhớ sự  việc" (kết thằng thời đại); sau đó thì dùng đến những "khắc vạch" (thư khế). Giáp cốt văn thời Ân Thương cũng  thuộc giai  đoạn dùng "kết thằng" như  đã trình bày. Bấy  lâu nay, người ta  thường cứ lầm tưởng là Giáp cốt văn là hệ quả của việc bói toán thuần túy thời Cổ đại Trung Quốc. Thuật ngữ "bốc phệ" gói trọn hai phép bói: một là "bốc" là bói giáp cốt và "phệ" là bói bằng cỏ thi. Bói Giáp cốt phổ biến thời Ân Thương, cả hai phép bói này phổ biến vào đời Chu.
Nhiều nhà nghiên cứu gần đây (trường hợp Phùng Hữu Lan trong Văn học sử  Trung Quốc chẳng hạn) thì gọi chung cả hai loại này là "quy thi",  tức là  nhấn mạnh vào  công cụ bói  toán. Những phát  hiện di chỉ khảo cổ học gần đây (Tế Nam)  đã chứng minh rằng: Giáp cốt văn là hệ văn tự biệt lập, nhưng việc khắc chữ lên những mảnh "quy giáp" (mai  rùa) và "thú cốt" (xương thú) để ghi chép những lời bói (bốc tự) đã khiến người ta dễ ngộ nhận sự bói toán là căn nguyên của Giáp cốt văn. Đây là dạng chữ viết của đời nhà Thương được khắc trên mai rùa hay trên những xương thú. Vì công dụng chính thời nguyên thủy là dùng vào việc ghi chép những điều bói toán là chính, cho nên còn được gọi là "bốc từ" (những lời giải về bói toán) hay "khế văn" (chữ khắc bằng loại "khế  đao", một loại tiền cổ). Trên một lĩnh vực khác, loại chữ này đã được phát hiện ở vùng  Ân Khư (cố đô  thời Hậu Thương,  nay thuộc huyện An Dương, tỉnh Hà Nam) cho nên  cũng được gọi là "Ân Khư văn tự" (chữ viết tại Ân Khư). Trong số bốn ngàn chữ giáp cốt đã thu thập được trên các loại bia văn, di chỉ  khảo cổ học, thì chỉ có vào khoảng 1.000 chữ là có thể đọc được và cũng giải thích được phần  ý nghĩa.
Trên đại cương, đây là dạng chữ viết đã tương đối hoàn chỉnh, tuy nhiên, vẫn còn có nhiều nét viết và "thiên bàng" (bộ thủ) chưa hoàn toàn ổn định, tạo nhiều khó khăn trong nghiên cứu sử liệu. Ngoài ra, một số chữ giáp cốt thuộc thời kỳ đầu tiên của nhà Chu cũng đã được phát hiện. (Theo tài liệu Ngôn ngữ học Trung Quốc). Trong lịch sử, thư pháp lấy chữ Hán làm lý do để tồn tại (reason for being); bởi vì không có chữ Hán thì không có thư pháp. Người đời sau, cũng  có kẻ dùng mẫu tự La tinh để viết thư pháp, hay dùng chữ Ả Rập để thư hoạ  kinh Koran; tuy nhiên, cũng chỉ là những cố gắng trong khả năng nhất định nào đó mà thôi. Mỗi chữ Hán gồm có 3 thành tố, biến đổi theo thời gian: hình, âm và nghĩa. Thành tố "hình" tức là thư thể. Nó rất đa dạng, từ thời Tiền Tần cho đến ngày nay. Cùng là một chữ, nhưng lại có nhiều lối thư thể; chẳng hạn: giáp cốt văn, đại triện, tiểu triện, lệ, khải (gồm có hành và thảo), ngụy bi (bia đá), giản, phồn. Có những người tinh thông Hán văn (kể cả người Hoa) nhưng chưa hẳn là đã tinh thông các thư thể, đặc biệt là thảo thư, hành thư, giáp cốt và triện thư. Do đặc tính nghệ thuật cao độ của thảo thư, cho nên sử dụng máy móc không thể nào thay thế tay người; mà dù cho cố ý tạo ra đi chăng nữa, cũng chỉ là những xác chữ, vô hồn!
Giai đoạn  thư khê bao gồm cả việc khắc chữ lên chuông và đỉnh vạc; hệ văn tự này gọi là "chung đỉnh văn". Tiền thân của loại văn  tự thư khê là  "bát quái" do Phục Hy vẽ ra. Còn chữ Hán văn, căn cứ theo truyền  thuyết là do Thương Hiệt, một sứ quan của Hoàng Đế tạo ra. Thuyết "Thương Hiệt tác thư" của thời Tam hoàng (Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế) cho đến nay vẫn trong vòng tranh cãi. Những nhà văn tự học hiện đại không cho rằng Thương Hiệt là người sáng tạo ra Hán tự. Họ lý luận rằng: Người sáng tạo ra phải là "nhân dân Trung Quốc", Thương Hiệt chẳng qua chỉ là người có công hệ thống lại cho có quy củ mà thôi! (Nhân dân Nhật báo).
Thời Xuân Thu Chiến Quốc lưu hành nhiều thư thể như "điểu trùng thư" (giống  dấu vết côn trùng, chim chóc), chữ "khoa  đẩu” (giống con nòng  nọc), “lựu văn” (thứ văn tự do Thái sư họ Lựu đời Chu Tuyên Vương sáng tạo, tức là chữ đại triện)... Loại chữ khắc hay đúc trên chuông đỉnh (chung đỉnh văn) cũng gọi là "kim  văn". Đời Đông Chu, có một loại chữ gần giống như chữ triện, chuyên khắc trên trống đá (thạch cổ), nên gọi là "thạch cổ văn". Ngô Xương Thạc (1844-1927) khởi đầu luyện lối chữ thạch cổ văn, về sau thành đại thư họa gia; mặc tích thạch cổ văn của ông là tác phẩm mẫu mực cho người học thư pháp hiện nay nghiêm tập.
Nguyên tắc cấu tạo chữ
Chữ Hán có sáu nguyên tắc cấu  tạo, gọi là "Lục Thư". Lục thư là: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá.
Tượng hình: dựa theo hình các sự vật mà viết thành chữ, như hình núi có các ngọn núi, cho nên chữ "sơn" biểu thị bằng ba nét nhọn. Chữ "mộc" nghĩa là cây, cho nên có ngọn, có gốc. Chữ "điền" là ruộng thì có từng thửa đất.
Chỉ sự: dựa  theo sự việc mà đặt ra chữ. Chẳng hạn: trời mưa thì có mây đen che phủ, rồi nước rơi xuống, vì vậy, chữ "vũ" có những chấm "thủy". Vì vậy, khi nhìn thấy mặt  chữ ta có thể hiểu ngay đại thể, quan sát kỹ thì có thể hiểu được ý nghĩa của nó.
Hội ý: lấy hai chữ hợp lại mà thành một chữ có ý nghĩa mới; nói cách khác là ghép  vài ba ký hiệu tượng hình để  biểu thị ý nghĩa mới của  một từ. Ví dụ: 1 cây  đơn độc thì dùng chữ "mộc" nhưng nhiều cây ghép lại (2 chữ "mộc") lại thành chữ "lâm" nghĩa là "rừng"; còn cây cối chằng chịt thì phải ghép 3 chữ "mộc" thì thành ra chữ "sum" nghĩa là rừng  rậm. 
Hình thanh: ghép những chữ có sẵn thuộc loại tượng hình và loại âm thanh để hình thành loại chữ mới; vì vậy đây cũng là loại chữ hợp thể. Đó là  điểm khác với chữ tượng hình và chỉ sự. Tuy ghép những chữ  có sẵn thành  chữ mới, nhưng  thế nào cũng  có một chữ thuộc về  "âm thanh"; điểm  này khác với chữ hội ý. Ví dụ: chữ "chi" (nghĩa là cỏ thơm) thì kết  hợp bởi chữ "thảo" (là cỏ) cọng thêm với chữ "chi" là thanh. 
Chuyển chú: Nguyên chữ Hán nhiều chữ đồng âm mà khác nghĩa, hay nghĩa đồng mà âm lại khác, nên thuờng lấy chữ này để làm chữ khác. Nói cách  khác, "chuyển chú" là lối đặt  chữ có cùng một bộ thì thanh âm gần nhau, ý nghĩa giống nhau và có thể chú thích cho nhau. Ví dụ: chữ "khảo" và chữ "lão" vốn hai chữ cùng một nghĩa và viết giống  nhau; về sau để phân biệt  hai chữ khác nghĩa, chữ  "khảo" được chuyển thành chữ hình thanh.
Giả tá: Trong chữ Hán, ngoài cách dùng lối "hình thanh" để biểu âm, lại dùng chữ "đồng âm" để đại biểu cho những chữ có nghĩa mới, mà không cần sáng tạo ra chữ mới, thì gọi là "giả tá". Chữ "giả tá" hoàn toàn xuất phát từ thanh âm giống nhau hay gần nhau, giữa chữ vay mượn và chữ được vay mượn có thể không quan hệ nhau về mặt ngữ nghĩa. Ví dụ: chữ "vạn" ngày xưa dùng để chỉ con bò cạp, nhưng sau dùng để chỉ 10.000. Chữ "trưởng" (trưởng thành) trong thanh âm gần giống chữ "trường" (trường đoản) nên mượn lấy.
Như thế, chữ  Hán phải tuân thủ theo những  quy tắc nào trong lối viết chữ? Chữ Hán là một loại chữ ghi ý, mỗi  ký hiệu tượng hình (chữ) ghi một từ hay một hình vị, về mặt âm ứng với một âm tiết. Họ sử dụng các nét, lập đi lập lại trong những kết hợp khác nhau để tạo ra các chữ. Các nét thông dụng mà ta  thường thấy như nét chấm, nét  ngang, nét mác, nét phẩy, nét  khung, nét móc...  Khi viết, người ta tuân theo quy tắc thuận áp dụng cho từng nét khác nhau: trên trước, dưới sau; trái trước, phải sau; ngang trước, sổ  sau; phẩy trước, mác sau; ngoài trước, trong sau; vào trước, đóng sau... Cho dù là chữ một nét như chữ "nhất" hay 27 nét như chữ "ký" (ngựa  chạy ngàn dặm) cũng đều phải thu gọn vào trong một ô vuông. Trung Quốc là một quốc gia có nhiều dân tộc, trên lãnh thổ này hiện nay có 56 dân tộc khác nhau.  Người Hán có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết riêng, đó là ngôn ngữ Trung Quốc, được sử dụng rộng rãi trong nước và những vùng có  Hoa Kiều sinh sống. Nhưng 55 tộc người khác cũng có ngôn ngữ riêng của họ. Theo hệ thống phân loại ngôn ngữ học trong "Tự Điển Bách  Khoa" của Trung Hoa thì 29 ngôn  ngữ thuộc ngôn ngữ Hoa - Tạng, 17 thuộc họ Antai, 3 thuộc họ Nam Á, 3  thuộc họ Ấn  - Âu. Ngôn  ngữ của người Cao Sơn ở  Đài Loan  thuộc loại ngôn ngữ Indonésia.
Ngụy bi thể là thư thể được khắc trên bia đá với kỹ thuật khá tinh vi. Trong lịch sử văn tự Trung Quốc, loại chữ này được thực hiện từ đời Bắc Ngụy, rồi sang Tây Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu. Các đế vương thời Nam Bắc triều ưa thích khắc những bài văn hay những công văn cần thiết lên bia đá để phổ biến và lưu truyền. Thư thể này mang dáng dấp của loại chữ khải (chân phương) và loại chữ lệ (chữ được giản hoá). Những  công trình khảo cổ học tại Trung Quốc trong vòng 00 năm nay đã khai quật nhiều chứng liệu về ngụy bi thể. Ngành "bi học" cũng được củng cố và đưa ra nhiều nguyên lý. Trong  lịch sử cận đại, những nhà canh tân văn hoá Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương  Khải Siêu, Bao Thế Thần đã cổ súy việc nghiêm tập về loại ngụy bi thể. Khang Hữu Vi đã ca tụng 10 vẻ đẹp sắc sảo của Ngụy bi thể như sau: - Phách lực hùng cường  - Khí tượng hồn mục - Bút pháp khiêu việt - Điểm hoạch tuấn hậu - Ý thái kỳ dật - Tinh thần phi động - Hứng thú hàm túc - Cốt pháp đổng đạt - Kết cấu thiên thành - Huyết nhục phong mỹ.
Vào năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, cả nước lập ra chế độ trung ương tập quyền. Nhà vua sai Tể tướng Lý Tư đem 8 loại chữ: đại triện, tiểu triện, chữ khắc, chữ dấu, thự thư (chữ ký), thù thư (chữ khắc trên ngọn giáo) và lệ thư thống nhất lại thành ra "Tần triện" (chữ triện đời nhầ Tần). Thừa tướng Lý  Tư (được giới thư pháp gia Trung Quốc xem là thư pháp gia đầu tiên của Trung Quốc) phụ trách việc hệ thống hoá và cải cách các loại thư thế đương thời, tạo thành loại chữ "tiểu triện" cũng gọi là "Tần triện". 
Hứa Thận đời Đông Hán viết trong Thuyết Văn giải tự rằng: "Tần Thủy Hoàng  sơ kiêm thiên hạ, thừa tướng  Lý Tư nãi tấu đồng chi, bãi kỳ bất dữ Tân Văn hợp giả.  Tư tác "Thương Hiệt thiên", trung xa phủ lịnh Triệu Cao tác "Ái lịch  thiên", thái sư Hồ Mậu  Kính ác "Bác học thiên", giai thụ sử Lựu đại triện hoặc pha tỉnh cải, sở vị Triệu triện giả dã".  Nghĩa là: "Tần Thủy Hoàng lúc mới thâu gồm  thiên hạ xong, thừa tướng Lý Tư bèn trình tấu xin đồng nhất (văn tự), bãi bỏ những thư thể không hợp với Tần  văn. Lý Tư đã viết ra  "Thương Hiệt thiên", quan Trung phủ Triệu Cao viết ra "Ái Lịch thiên", qua Thái  sử Hồ Mậu Kính viết ra "Bác học thiên", tất cả đều giữ lấy chữ đại triện của Thái sử Lựu hay chế biến, tinh giản đi, gọi là tiểu  triện vậy"... Đáng tiếc là cả 3  thiên trên đã  không còn được lưu truyền đến ngày nay nữa.
Loại kim văn (đại triện)  là dạng chữ được khắc hay đúc trên dụng cụ bằng đồng thau vào thời Thương Chu, còn được gọi là "chung đỉnh văn" (tức là chữ viết trên chuông và đỉnh). Loại chữ này về hình thể lúc đầu gần  giống như loại giáp cốt Văn, có chữ còn mang dấu vết của văn tự đồ họa buổi ban đầu; cho đến giai đoạn sau, loại chữ này gần  giống như loại tiểu triện. Còn về mặt  kết cấu hình thể, loại chữ này đã tương đối hoàn chỉnh. Vào thời nhà Chu, đã có văn bản chữ kim dài tới 500 chữ. Vào đời nhà Chu, ngoài  loại chữ kim, còn có những  thể chữ khác khắc trên nhiều thứ vật liệu  khác nhau (tre, gỗ, đá). Chẳng hạn: khi chư hầu và khanh đại phu kết giao với nhau, ký minh ước, thì  phải viết chữ trên những phiến ngọc đá: đó là loại "chữ minh ước" (hay minh thư). Nếu bản văn được ghi chép  trên phiến gỗ, gọi là "thẻ gỗ"; chữ viết trên thẻ tre gọi là "thẻ tre"; chữ viết trên đôn đá hình trống thì gọi là "chữ trống đá". Hình thể những chữ này khác nhau rất lớn, lại thêm tình trạng phân chia thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, đã làm cho kiểu chữ viết  thêm phức tạp, không có trật tự. Tần Thủy Hoàng còn dẫn những quan đại thần  đi thị sát các quận, huyện, trèo non lội suối, tìm thú núi sông, phàm nơi nào nhà vua đặt chân đến đều phải dựng bia đá  khắc, để ca ngợi oai  hùng và công tích của mình "quét ngang lục hợp, uy vang tứ hải" bảy lần. Đá khắc của tể tướng Lý Tư còn  truyền lại cho đến nay thì có: đá  khắc Thái Sơn Phong Sơn, đá khắc Lang Nha, đá khắc Dịch Sơn...  Trên những bia  đá này còn thể hiện những  thể loại thư pháp khác nhau:
Đá khắc Phong Sơn:  Đây là tác phẩm tiêu biểu cho loại chữ Triện Tần (tức là tiểu triện). Những chấm trên chữ đều thành đường nét, to nhỏ khác nhau, đầu cũng tròn, cuối cũng tròn. Thể chữ này trông đoan trang, chặt chẽ, có thực, có hư, nơi thưa, nơi dày đều thích đáng, trông ung dung, đều đặn, mà lại khoẻ khoắn, sức lực dồi dào. Nhiều nhà  bình phẩm về thư pháp cho rằng: "Nét chữ này hình như sắt đá, dáng khoẻ ngàn cân";  kết cấu chữ thì trên căng, dưới chùng, chân thòng kéo dài, có tư  thế oai nghiêm từ trên cao nhìn xuống, hầu như bắt người đọc phải ngước nhìn lên mới thấy rõ được. Còn về chương pháp thì: hàng hàng chỉnh tề, quy cách hài hoà. Phong cách chỉnh  tề thống nhất, nhất trí với lý tưởng chính trị của đời nhà Tần. Loại đá khắc vào đời nhà Tần, nhìn chung, có phong cách nghệ thuật thung dung, khoẻ khoắn, thống nhất với thời đại của vương triều nhà Tần.
Lối khắc chữ  "giáp cốt" của những danh sĩ  đời Ân và đời Thương, được xem là "sự giao hòa giữa thần và người", đã đạt tới sự cảm ứng với thế giới thần bí trong từng  nét chữ. Lối khắc chữ trên những đồ đồng của đời Thương, Chu thường dùng trong cúng tế các Thần linh, hay ghi lại những biến chuyển của triều chính, vua chúa, đề cao vương quyền.  Những đá khắc của Tần Thủy Hoàng thường đem dựng  lên trên  những đỉnh núi nổi tiếng nhất của Trung Hoa, nhằm đề cao những công  tích của nhà vua từng thống nhất sáu nước, tuyên dương uy nghiêm của Vương  quyền, lòng tin  tưởng mãnh liệt  của triều đình nhà  Tần, biểu đạt ý nguyện thống trị thiên hạ "thiên thu vĩnh cửu, thọ dữ thiên tề".
Tiểu triện là loại chữ thông dụng vào thời nhà Tần, nên còn gọi là "Tần triện". Trong thời Chiến  Quốc, chữ viết ở các địa phương Trung Quốc có hình dạng khác nhau và cách phiên âm cũng khác nhau cho nên gây nhiều bất  tiện trong giao dịch. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, đã chỉnh lý lại toàn thể các văn tự  địa phương, đồng  thời cũng đã giản hoá chữ  viết trong dân gian. Trên cơ sở của loại "đại triện" (còn được gọi là "trụ văn", một loại chữ thông dụng ở nước Tần vào thời Xuân Thu Chiến Quốc), nhà  Tần đã quy  định một dạng chữ viết chuẩn gọi là "tiểu triện". Sự thống nhất hoàn toàn Trung Quốc thời nhà Tần  đã có tác dụng lớn đối với việc quy phạm hoá chữ Hán.
Lệ thư là dạng chữ thông dụng vào thời nhà Hán, bắt đầu từ cuối nhà Tần đến thời Tam Quốc. Loại này còn được gọi là "Hán lệ", "tả thư", hay "bát phân". Ở giai đoạn  đầu,  lệ thư còn bảo lưu một số dạng nét  của tiểu triện,  thời gian sau  đó, những nét  mác lượn sóng tăng lên dần, trở thành đặc điểm nổi bật của loại chữ này. Lệ thư xuất hiện làm cơ sở cho khải thư sau này, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của chữ Hán. Đó là giai đoạn cổ văn tự chuyển sang giai đoạn "Kim văn tự".   
Tương truyền vào đời  nhà Tần, có một nô lệ tên  là Trình Mạc mắc tội với Tần Thủy Hoàng, bị giam vào ngục tối. Trình Mạc thấy thẻ bài của quan coi ngục thời đó viết bằng  thứ chữ triện rất phiền phức, bèn cải cách nó, chuyển phức tạp thành đơn giản, sáng lập ra thứ chữ mới. Tần Thủy Hoàng xem xong rất khen ngợi, chẳng những xá tội cho, mà còn phong anh ta làm Ngự Sử, và quy định đem thứ chữ này phổ biến. Vì Trình Mạc là một tên nô lệ,  thứ chữ ban  đầu ứng  dụng trong công việc nô dịch, nên gọi là  chữ "lệ" (nô lệ). 
Câu chuyện trên đây được ghi trong Trung Quốc ngoại sử. Vì là "ngoại sử" nên nhiều người thắc mắc. Có thể đây là chuyện hư cấu,  khiên cưỡng. Thực ra, cũng như việc ra đời của thư pháp, chữ lệ cũng phải tích lũy dần dà theo năm tháng, do nhiều người nhiều việc sáng tạo; việc Trình Mạc làm có thể chỉ làm công việc chỉnh lý lại mà  thôi. Xét những  tài liệu khảo cổ  khai quật được tại Thiểm Tây, những văn tự khắc trên thẻ gỗ và thẻ tre đã có khuynh hướng thể chữ triện đơn giản hoá, giảm bớt một số nét, hình dạng chuyển sang suông dẹt, bút pháp có khuynh hướng làn sóng. Đó là mầm mống của loại chữ lệ. Thời Tây Hán, thành phần của loại  hữ lệ trong thư pháp có tăng thêm nhiều hơn... Tranh lụa "Lão Tử" thời Tây Hán, khai quật ở khu di chỉ gò Mã Vương, thành phố Trường Sa, đã có chữ lệ  rõ rệt.  Chữ lệ thuần thục vào thời Đông Hán. Thời Hán Hoàng Đế  (147-167), Hán Linh Đế (168-189) là thời kỳ thịnh hành của loại chữ lệ.
Chữ lệ xuất hiện lại là một  thay đổi lớn trong lịch sử thư pháp, cũng như lịch  sử chữ viết Trung Quốc. Từ đó, thư pháp chia tay với chữ viết cổ từng kéo dài trên 3000 năm, để bắt đầu bước vào thời  kỳ chữ viết hiện nay, kết cấu chữ không còn nghĩa tượng trưng như chữ viết cổ, mà hoàn toàn trở thành những phù hiệu. Chữ lệ tiếp trước, mở sau; trước tiếp chữ lệ, sau mở chữ khải, là một chuyển viết trong lối viết.
Với tư cách là nghệ thuật thư pháp, nó đã phá vỡ sự hạn chế bút pháp đơn nhất của loại chữ triện trước nay. Người thời xưa gọi loại chữ  triện là "đũa ngọc", tức là đôi đũa làm bằng ngọc, ngang bằng sổ  thẳng, cân bằng đầy đặn. Chữ kết cấu có quy tắc nghiêm ngặt, tương đối ít thay đổi. Nhưng khi chuyển sang loại chữ lệ thì không như vậy; nó điểm vạch rõ ràng,  nhỏ to vừa  mức, nét chữ "đầu tằm  đuôi én", một nét ba gợn. Bút pháp có vuông, có tròn, hay kiêm cả hai loại vuông và tròn. Kết  cấu hoặc cao hiểm trầm bổng, cứng khoẻ vững chãi; hoặc đều đặn đẹp đẽ, tròn trĩnh xinh xắn; hoặc giữ chắc cung giữa, nhấn dừng trang trọng; hoặc mở to vòng lớn, khí  phách bay bổng, thật đúng là biến  hoá vô cùng, đua nhau khoe tốt.  Đây thực là một chương đẹp nhất  trong lịch sử thư pháp.
Khang Hữu Vi, danh sĩ đầu thế kỷ  XX tôn sùng hết mức chữ lệ đời Hán; trong tác phẩm "Quảng Nghệ Châu song  tập", ông viết: "Viết  chữ không thời nào phát triển  bằng thời Hán, không chỉ riêng thể chữ có phong độ cao, mà nó biến chất nhiều nhất, cao vững muôn đời. Đỗ Độ viết chữ thảo, Thái Ung viết phi bạch (giữa nét chữ có những điểm trắng), Lưu Đức Thăng viết hành thư, đều là những nhân vật thời nhà Hán cả. Cuối mùa, biến thành chữ chân khải, người đời sau không ai vượt qua được. Tóm lại, thể chữ đến mức cao nhất là vào thời nhà Hán, biến hoá vô cùng...".
Phong cách hùng mạnh, chất phác của thư pháp thời Hán có quan hệ với phong cách của xã hội đương thời. Loại chữ lệ thời Hán tiềm ẩn một khí thế rất lớn, chất chứa và dâng trào, tiềm ẩn một sức mạnh trong việc thực hiện thư pháp Trung Quốc. Chữ lệ thời Hán (Hán lệ)  tinh đẹp, tuyệt diệu, cho đến nay vẫn lan toả sức hấp dẫn nghệ thuật vô cùng tận. Hán lệ ngày nay được bảo lưu dựa trên những bi ký khắc từ thời đó, mà các nhà khảo cổ học đã khai quật được. Đáng tiếc, tác giả viết  những lối chữ đó (trên bia) không lưu lại tên họ, người đời sau đành chỉ có thể  đặt tên theo từng tấm bia hay theo nội dung khắc trên từng  tấm bia, mà học giả Hồ Thích đã ghi chép. Chẳng hạn: bia Ất Anh, Bia Sử thần (sử xuất hiện rất sớm), bia Lễ Khí (dùng trong tế lễ), tụng thạch môn (xa tụng cửa đá), bia Hoa Sơn, bia TàoToàn, Tụng Tây Hiệp, bia Trương Cảnh, bia Trương Thiên... Thư pháp của đời nhà Hán, ngoài loại bia khắc ra, còn có thể Hán,  được viết trên các phiến gỗ (miền Hoa Bắc) hay trên các phiến tre (miền  Hoa Nam). 
Chữ Hán Lệ viết  trên thẻ không nghiêm chỉnh, trang trọng, khi thế có thể được khoáng đạt như trên bia khắc, tuy nhiên lại hoạt bát, linh động, biến hoá nhiều vẻ, thậm chí ngẫu hứng, giàu chất hài hước. Nếu ta ví loại khắc bia chẳng khác nào "công bút"  thì thể Hán lại giống như "vẽ tả ý". Thể Hán có thể chữ hồn nhiên hay đầu thô tùy tiện, không có viền mép, thậm chí trông như qua loa, nhưng trong đó thì lại hiện ra những mẫu mực về loại viết chữ thảo của đời nhà Tấn. Thực ra, đời nhà Tấn đã dùng cả hai thứ chữ triện và chữ lệ, tuy nhiên, trong các văn thư chính thức của triều đình thì dùng toàn loại chữ triện, mà các di tích còn bảo lưu cho thấy điều đó. Đến đời Hán, chữ lệ mới trở  thành thư thể hình thức trong tất cả các loại văn thư hành chính. Lệ thư biến thể  từ triện thư và cổ văn (Cổ văn bao quát giáp cổ văn, chung đỉnh văn  và khoa đẩu văn).  Như vậy, có  2 Lệ thư: Tân lệ thư (cũng  gọi là bát phân) của đời nhà Tần và Hán lệ thư của đời  Hán.

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Chương trình từ thiện: "Giao thừa ta có nhà" của nhóm thư pháp trẻ!

Ngày 6/1/2013, nhóm thư pháp trẻ CLB thư pháp Hoa Chữ Việt đã có một chương trình tặng chữ gây quỹ từ thiện Tâm Ái tại Nhà văn hóa TDTT Tân Bình, nhằm giúp đỡ những mãnh đời cơ nhỡ trong cuộc sống bằng chính tài hoa nét chữ của mình!

 Ông đồ trẻ hăng say viết chữ Phúc!


Những ông đồ luôn nở nụ cười trên môi dù thấm mệt!


Ông Đồ trẻ với nét bút uốn lượn làm mọi người ai nấy cũng muốn nhận được một bức!


Treo cả tranh chữ lên cây ^^!


Người dân khoái chí và rất vui vì nhận được một tác phẩm thư pháp rất đẹp!



Trổ tài thảo bút trên giấy của các ông đồ rất trẻ!


Thư pháp chữ An của thư pháp gia Minh Hoàng!


Các bạn trẻ thích thú vì đã làm dc 1 việc tốt!




Ông Đồ Minh Hoàng thật "đắc khách"


Ông Đồ nhỏ tuổi nhất đang chuẩn bị cho chữ!




Quang cảnh đông vui, tấp nập giữa những tấm lòng nhân ái!


giới trẻ rất thích chữ Tâm và Nhẫn !


Ông đồ nhỏ tuổi Xuân Thành đang thả hồn theo nét chữ!




Say sưa viết quên cả ăn uống !




Trao đổi kinh nghiệm, chia sẽ với nhau!



Một buổi tối thật ý nghĩa và sung túc trong năm mới 2013...