Nói đến Thư pháp là nói đến một loại hình nghệ thuật độc đáo, hình tượng mỗi chữ viết ra nói lên được hồn người, diễn tả dụng ý của ngôn từ bằng chính chữ viết của mình, do đó, mỗi ký tự viết ra là một nét bút đặc trưng khác nhau tùy theo vị trí và dụng ý của người viết, cũng như tùy thuộc vào lời văn được viết. Do vậy làm sao mà tạo nên một phông chữ ưng ý và hoàn chỉnh thay cho cách viết thư pháp bằng bút lông được? Vì trên máy vi tính, mỗi phông chữ chỉ gói gọn trong 24 ký tự tiếng Việt mà thôi, thí dụ như chữ
a này vẫn dùng cho chữ
â kia chẳng hạn… Tuy nhiên, với niềm đam mê và sự cố gắng hiệu chỉnh không ngừng, phông chữ tạm gọi là
Thư pháp gõ theo mã tiếng Việt đã được hình thành, tuy chưa vừa ý nhưng cũng tạm đáp ứng được phần nào cho các bạn thích chơi chữ và dùng làm thiệp. Chúng tôi xin
tạm gọi là chữ thư pháp thôi, vì như trên đã nói, làm sao máy tính diễn tả hồn người được?
Chúng tôi không phải là những nhà nghiên cứu Tiếng Việt, cũng không phải là cụ đồ nho mà dám nói lên Hồn Việt qua nét chữ, chúng tôi chỉ là những người tập tành làm nghệ thuật mà thôi, đã tập tành thì chưa dám nói đến vị nghệ thuật, chứ đừng nói chi là vị nhân sinh. Nhưng đứng trước trào lưu phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ mới vào kho tàng nghệ thuật dân gian của Việt Nam của chúng ta cũng là việc đáng làm và đáng quan tâm, dù sao thì cũng phải có một cái gì đó nói lên Hồn người Việt của mình trên chiếc máy tính chứ! Do vậy nên tuy biết rằng mình tài hèn sức mọn, chúng tôi vẫn gắng làm, nhờ đó mà các phông chữ thư pháp ra đời.
Tiếng Việt của chúng ta khác với các ngôn ngữ khác, vì chúng ta có dấu. Về mặt mỹ thuật thì đây cũng là một điểm để các cụ đồ thời nay trổ tài hoa mỹ khi viết dấu, tuy nhiên trong máy tính, chỉ có mỗi một cách viết cho mỗi loại ký tự hoặc dấu, nên việc diễn tả có phần hạn chế, mong người sử dụng hãy thông cảm cho vì máy tính không thể nào bằng bút lông được!
Khác với những chữ thư pháp có trên thị trường, đó chỉ là những hình ảnh các chữ đã được viết sẵn, các phông chữ thư pháp của chúng tôi là phông chữ True Type thực sự, có kích thước file chỉ vài chục KB mà thôi, bạn có thể Add Font vào thư mục Fonts của Windows bằng cách Install new fonts, phông chữ này sẽ có mặt trong List font của Winword, Corel, Photoshop và sử dụng như những phông chữ bình thường khác. Xin lưu ý với các bạn là trong Word, các chữ thư pháp hiển thị trên trang văn bản sẽ không nhìn thấy phần chân của ký tự đối với các chữ g, y, q chẳng hạn, vì nó là dạng phông chữ nghệ thuật nên dài hơn bình thường và vì Word đã ngầm định khoảng cách trong Paragraph, nhưng khi in ra để chế bản thì hoàn toàn chính xác, xin quý vị và các bạn hãy yên tâm. Ngoài các phông chữ Thư pháp ra, chúng tôi còn dành tặng quý vị các phông chữ độc đáo và mới lạ khác mang tính thẩm mỹ không kém gì chữ thư pháp.
Nói về Hồn Việt qua Thư pháp, chắc chắn còn rất nhiều điều để bàn, chúng tôi không dám đề cập đến nhiều vì chỉ là hậu sinh mà thôi, mong các vị tiền bối thông cảm cho, nhưng tóm lại, chúng tôi chỉ muốn tạo các phông chữ thư pháp để đem đến một chút gì đó gởi đến quý vị và các bạn cho thỏa niềm say mê mà thôi. Chắc chắn sẽ còn rất nhiều điều để nói, xin quý vị và các bạn hãy nói lên cảm nghĩ của mình bằng cách click vào mục
Góp ý kiến nhận xét trên diễn đàn hoặc
Click vào đây để gởi thư góp ý cùng chúng tôi. Một lần nữa, xin cám ơn quý vị và các bạn.
Ở Việt Nam thuở xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những « Thầy Ðồ » hay những người « hay chữ » để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối viết như vậy được gọi là Thư Pháp (Calligraphy). Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp).
Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì.
Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện: bút sắt, cọ, thước, compa, êke… Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh.
Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt… Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học.
Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới đọc được chữ Hán, chữ Nôm, còn hầu hết là không đọc được.
Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt? Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi vì sao giải thích được: « Sao là đẹp? Sao là không đẹp? » (KTS Nguyễn Thanh Sơn)
« Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !… biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau nầy » (Trang Tử).
Thư pháp bằng tiếng Việt
Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải “nhiếp tâm” với những gì mình sắp sửa viết ra.
Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoảng 10 năm nay tại Việt Nam, nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều “Thư pháp gia” tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị và các bạn sơ lược về bộ môn này.
Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn này khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chính:
Chương pháp: tức là nghiên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp.
- Ðầu câu không thụt vô.
- Các hàng đều và dài bằng nhau
- Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng
- Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng
- Không dùng dấu chấm câu.
Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chính:
- Hình chữ nhật đứng (Trung đường)
- Hình chữ nhật ngang (Hoành phi)
- Hình vuông (Ðấu phương)
- Hình mặt quạt (Phiến diện) (xem các hình bên cạnh)
Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hóa rất độc đáo của người Trung Quốc.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm giá trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi:
Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm.
Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt.
Loại nửa chìm nửa nổi
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như:
- Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương
- Ðóng ở thắt lưng thư tác gọi là Yêu chương
- Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây:
- Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình); hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ…) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện.
- Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ…) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện.
- Trường hợp ngoại lệ: vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện.
Các kiểu chữ trong Thư pháp:
Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chính:
- Chữ
Chân Phương, tạm gọi là
Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường.
- Chữ
Cách Điệu, tạm gọi là
Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình.
- Chữ
Cá Biệt, tạm gọi là
Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc.
- Chữ
Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v…
- Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược.